1. Giới thiệu về tác giả Thanh Hải và bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

1.1. Tác giả Thanh Hải (1930 – 1980)

Thanh Hải tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời ký kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động và là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.

1.2. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được viết không bao lâu trước khi nhà thơ Thanh Hải qua đời. Bài thơ thể hiện niềm yêu mến thiết tha cuộc sống, đất nước và ước nguyện của tác giả.

2. Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Thanh Hải (sinh năm 1930, mất năm 1980) là một nhà thơ tiêu biểu, là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam từ những ngày đầu tiên. “Mùa xuân nho nhỏ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Tuy đề tài mùa xuân là một đề tài được nhiều nhà văn, nhà thơ khai thác, nhưng với bối cảnh sáng tác của “Mùa xuân nho nhỏ” là không bao lâu trước khi tác giả rời khỏi cõi đời, hình ảnh mùa xuân ấy sao mà lại trở nên đặc biệt đến thế! Mỗi dòng thơ trong bài đều được Thanh Hải thể hiện bằng một hồn thơ trong trẻo, lạc quan, thể hiện niềm yêu mến thiết tha cuộc sống, đất nước mãnh liệt.

Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên của mùa xuân, những âm thanh quen thuộc, giản dị từ đồng quê đã được tác giả vẽ nên một cách có chọn lọc và gợi hình, gợi cảm, giống như những tiếng hát reo hò khi đón chào một mùa xuân mới đã đến:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Trên dòng sông xanh của quê hương mọc lên một bông hoa tím biếc – một màu đặc trưng của xứ Huế mộng mơ nơi tác giả sinh ra và lớn lên. Động từ “mọc” nằm ở vị trí đầu câu thơ gợi tả sự ngạc nhiên vui thú, một niềm vui hân hoan đón chào tín hiệu mùa xuân. Ngẩng nhìn bầu trời, nhà thơ vui sướng lắng tai nghe chim chiền chiện hót. Hai tiếng ”hót chi” là giọng điệu thân thương của người dân Huế được tác giả đưa vào diễn tả cảm xúc thiết tha giữa người với tạo vật. Tiếng chim ngân vang, rung động đất trời đem đến bao niềm vui. Ngắm dòng sông, nhìn bông hoa đẹp, nghe chim hót, nhà thơ bồi hồi sung sướng. Câu thơ “Tôi đưa tay tôi hứng” tuy là một cử chỉ bình dị nhưng lại thể hiện sự trân trọng của tác giả đối với “giọt long lanh”.

Trong vũ điệu của mùa xuân, ta không chỉ thấy được vẻ đẹp quyến rũ của khung cảnh thiên nhiên mà còn bắt gặp mùa xuân trẻ trung, sôi nổi của con người. Bốn câu thơ tiếp theo nói về mùa xuân sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta. Cấu trúc thơ song hành để chỉ rõ hai nhiệm vụ chiến lược ấy:

“Mùa xuân người cầm súng,

Lộc giắt đầy trên lưng.

Mùa xuân người ra đồng,

Lộc trải dài nương mạ.” 

Hình ảnh lộc non là biểu tượng cho sức sống mới vươn lên. Nếu như “lộc” của người lính là cành lá ngụy trang theo từng bước chân hành quân, là xương máu mà các anh đổ xuống, là công sức bảo vệ mùa xuân thanh bình của dân tộc, gieo niềm hạnh phúc đến mọi nhà thì “lộc” của người nông dân là mồ hôi, là bát cơm, là chiếc áo ấm. Người nông dân đem mồ hôi và sức lao động cần cù làm nên màu xanh cho ruộng đồng, “nương mạ” bát ngát trên quê hương. Ý thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi. Từ ấy mà giai điệu của mùa xuân trở nên rộn rã hơn, nhịp sống con người cũng hối hả, xôn xao hơn:

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao.”

Điệp từ “tất cả” cùng với những từ láy “hối hả”, “xôn xao” đã làm tăng nhịp điệu câu thơ, lại càng làm nên cảm giác về một nhịp sống sôi động và hối hả, tăng tính cấp bách trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước. Và để rồi, trước khung cảnh tươi đẹp và tràn đầy sức sống ấy của mùa xuân đất nước tác giả đã bày tỏ niềm tự hào, niềm tin của mình vào một tương lai ngày mai tươi sáng, tốt đẹp:

“Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.”

Nhà thơ Thanh Hải đã nhắc lại chặng đường bốn nghìn năm của đất nước, lúc suy vong, lúc hưng thịnh với bao thử thách “vất vả và gian lao”. Đó là một chặng đường đầy những gian nan, khó khăn và chứa đựng nhiều thử thách, mất mát. Thời gian dài đằng đẵng ấy, nhân dân ta từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem xương máu và mồ hôi, lòng yêu nước và tinh thần quả cảm để xây dựng và bảo vệ đất nước. Câu thơ “Đất nước như vì sao” là một hình ảnh so sánh đẹp và đầy ý nghĩa. Hình ảnh so sánh ấy vừa gợi đến nguồn sáng trường tồn mãi với không gian, thời gian, vừa gợi lên niềm tin của tác giả về một tương lai tươi sáng, rộng mở của đất nước với khí thế mạnh mẽ không gì cản nổi. Cùng với đó, cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm”, “đất nước như vì sao” đã diễn tả sự vận động đi lên của lịch sử và là lời khẳng định về sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước. Ba tiếng “cứ đi lên” thể hiện chí khí, quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng một Việt Nam giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Nếu nhịp điệu thơ ở những khổ thơ trên mang nét hối hả, khẩn trương, vừa tả thực, vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa về màu xuân của đất nước lớn lao thì bốn câu thơ sau đó lại như một nốt trầm nhẹ nhàng trong một bài nhạc vui tươi, rộn rã:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.”

Điệp ngữ “Ta làm” ở đầu các câu thơ như một khẳng định những ước nguyện chính đáng, cao đẹp thể hiện tâm hồn khát khao được làm việc, cống hiến cho cuộc đời của tác giả. Tác giả mong ước được làm “con chim hót” để gọi xuân về, đem đến niềm vui cho con người; làm “một nhành hoa” để tô điểm cuộc sống, làm đẹp thiên nhiên sông núi; và làm “một nốt trầm” của bản “hòa ca” êm ái để làm xao xuyến lòng người. Với Thanh Hải, hóa thân là để hiến dâng, để phục vụ cho một mục đích cao cả:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.”

Mùa xuân là một khái niệm trừu tượng chỉ thời gian, nhưng tác giả đã cụ thể hình ảnh mùa xuân bằng cách sử dụng từ “nho nhỏ”, điều này thể hiện một tâm hồn bình dị, lặng lẽ cống hiến của tác giả, mong muốn góp một chút ít sức lực của mình cho mùa xuân lớn lao của đất nước, dù là khi bản thân mới tuổi hai mươi hay khi bản thân đã già, tóc đã bạc.

Đến khổ thơ cuối, đây như là tiếng hát yêu thương, êm ả của giọng hò xứ Huế, thể hiện tình yêu của tác giả đối với quê hương Thừa Thiên – Huế, nơi chôn rau cắt rốn của mình:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.”

Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế nối tiếng, còn phách tiền là một nhạc cụ dân tộc để điểm nhịp cho lời ca, tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục. Câu thơ “Mùa xuân ta xin hát” diễn tả niềm khao khát bồi hồi của nhà thơ đối với quê hương yêu dấu của tác giả. Đối với tá giả, xứ Huế luôn hiện lên thân thương với “ngàn dặm mình”, “nghàn dặm tình”.

Tác giả đã rời xa cõi đời, bài thơ cũng đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn luôn còn đọng mãi tỏng lòng người đọc. Có thể nói, Thanh Hải đã góp cho vườn thơ Việt một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Với thể thơ năm chữ; giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang; ngôn ngữ thơ trong sáng, hàm súc và hình tượng; các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ song hành đối xứng, các điệp ngữ… được vận dụng sắc sảo, tài hoa đã làm nên một bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” thể hiện tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

Trên đây là bài viết của Rong Ba Bakery về chủ đề Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ chọn lọc hay nhất. Hy vọng những mầu bài phân tích trên đây đã giúp ích cho quý bạn đọc trong khi đọc và tìm hiểu tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải.